Ý tưởng nuôi giun và lươn

1. Ý tưởng:

Lươn là loài sống khỏe, ít bị bệnh, kĩ thuật nuôi không khó, thịt rất ngon và bổ, đem lại hiệu quả kinh tế cao … Đó là những lí do mà bạn nên chọn nuôi lươn khi mình đủ điều kiện nuôi nó.

Ngày xưa, khi nuôi bất cứ con vật gì điều đầu tiên bạn cần quan tâm là kĩ thuật nuôi. Thế nhưng ngày nay ngoài yêu cầu kĩ thuật nuôi bạn phải biết nhiều thứ khác nữa. Một trong những nguyên nhân khiến cho bạn thua lỗ là chi phí thức ăn và đầu ra cho sản phẩm. Tại sao tôi lại đề cập đến vấn đề nuôi giun khi muốn nuôi lươn? Bởi vì khi bạn chủ động được nguồn thức ăn bạn sẽ cắt giảm được hơn 50% chi phí sản xuất. Nếu bạn không làm tốt hai khâu tự cung tự cấp thức ăn và thị trường tiêu thụ sản phẩm thì hãy bỏ ý định nuôi lươn đi!

Thời buổi bây giờ làm giàu khó khăn hơn ngày xưa gấp vạn lần. Một phần vì người khôn của khó, một phần vì điều kiện khách quan luôn thay đổi, biến động làm cho khả năng thất bại rất cao. Chính vì lẽ đó người làm giàu ngoài phẩm chất, năng lực hơn người, họ còn phải có tầm nhìn xa trông rộng, tính toán đủ đường, khả năng quyền biến, quyết định khôn ngoan … thì mới mong trụ nổi trên thương trường đầy sóng gió. Nếu bạn cho những điều tôi nói là vô lí bạn có thể ra làm thử. Khi phải trả giá đắt bạn mới hiểu giá trị của chất xám, kinh nghiệm. Ngày xưa người nông dân chỉ cần cắm đầu vào nuôi trồng bất cứ cái gì mà nó sống là có người khác tìm đến mua, có tiền trang trải cuộc sống. Ngày nay người nông dân phải hiểu biết về thị trường, nắm bắt thông tin đa chiều … Xã hội dần sẽ phân ra hai thái cực: Người làm chủ và người làm thuê. Qui luật tự nhiên sàng lọc khắc nghiệt để chỉ có người giỏi mới tồn tại. Hãy nỗ lực học tập để không quá lạc hậu.

Trong ý tưởng này tôi muốn xây dựng một mô hình “nuôi giun và lươn” bài bản giống như một trang trại công nghiệp. Có khu vực dành riêng cho từng mục đích cụ thể, có hệ thống lọc nước để tái sử dụng, có phòng nghiên cứu – phát triển, marketing, phân xưởng sản xuất, đóng gói, hệ thống nhà hàng bán các món ăn ngon chế biến từ lươn … Đã không làm thì thôi, một khi đã làm thì phải làm cho ra trò. Đó là lí do bạn cần đến tôi khi muốn làm giàu thực sự.

Càng ra nước ngoài học hỏi tôi càng hiểu tại sao người nước ngoài họ giàu hơn ta. Khi làm bất cứ điều gì họ cũng đều bỏ ra rất nhiều tiền bạc, thời gian, công sức … nghiên cứu, thử nghiệm trước khi làm. Những mô hình lớn luôn được đầu tư về chất xám rất dữ dội. Việt Nam chúng ta thì khác. Mình quen nghĩ rằng ra làm đại khi thất bại rồi rút kinh nghiệm. Chủ nghĩa kinh nghiệm vẫn còn hằn sâu trong tư tưởng của nhiều người. Chính vì lẽ đó khoa học kĩ thuật chưa cất cánh được, người giỏi chưa có đất dụng võ.

Xin mượn một câu của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để nói nhắn nhủ với những ai suy nghĩ lệch lạc về làm giàu: “Tao muốn làm người lương thiện (…) Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không!”. Khi bạn khao khát làm giàu chân chính nhưng không được bạn bèn hận đời, hận người rồi cho rằng làm giàu cần phải dùng thủ đoạn bẩn thỉu, để từ đó bạn biến thành con người xấu. Khi bạn nhận thức ra rằng cần phải làm giàu chân chính để có cuộc sống thanh thản, hạnh phúc, bền lâu … thì đã quá muộn hoặc bạn phải “lột xác”. Đây là điều quá khó khăn đối với bạn. Chính vì vậy, học để hiểu, hiểu để đi đúng hướng, hành động chuẩn xác … là điều vô cùng hữu ích. “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” (Heraclitus). Thời gian sống trên đời đối với mỗi người là có hạn. Hãy cân nhắc thật kĩ trong từng hành động để có cuộc sống tốt đẹp về sau bạn nhé!

2. Hoàn cảnh khách quan:

“Nuôi lươn không cần bùn

(Dân Việt) – Trong lần thăm mô hình nuôi lươn không cần bùn ở xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Hoàng ở Xuyên Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu quyết định nuôi lươn theo cách này. Chia sẻ với chúng tôi, ông Hoàng kể, trước đây ông cũng nuôi lươn trong bể bùn như bao hộ khác, nhưng trong quá trình nuôi ông thấy nuôi lươn trong bể bùn có nhiều hạn chế như: Đi lấy bùn khó; không quản lí, theo dõi được quá trình sinh trưởng phát triển, không phát hiện bệnh kịp thời để điều trị cũng như quản lí số lượng của lươn. Ông tìm tòi và thử nghiệm nuôi lươn trong bể không bùn và đã cho kết quả khả quan. Từ thành công này, năm 2009 ông bắt đầu chuyển hẳn sang nuôi lươn không bùn và mở rộng diện tích từ vài hồ đến nay lên 16 hồ.

Theo kinh nghiệm của ông Hoàng, hồ nuôi lươn không nên xây lớn quá (diện tích từ 6 – 8 m2/hồ) để giúp việc theo dõi, quản lí lươn dễ dàng. Đáy và thành hồ tốt nhất là lót gạch men nhằm hạn chế sây sát da lươn gây ghẻ lở; thành hồ lát gạch cao 40 cm; mỗi hồ có một lỗ thoát nước 10 cm, xung quanh ống thoát đặt thêm ống bảo hiểm to hơn ống thoát để lươn không thoát theo nước ra ngoài khi xả nước; trong hồ có những tấm vạt tre để lươn ngoi lên thở; trong hồ không thả lục bình hay bất cứ vật gì khác; có trại che nắng giữ nhiệt độ trong nước ổn định. Ông Hoàng cho biết, nguồn lươn giống ông mua từ các tỉnh miền Tây giá 70.000 – 80.000 đồng/kg. Lươn con mới bắt về được sát trùng bằng dung dịch muối nồng độ 2-3% trong 5 – 10 phút và thuốc tím 10 – 20g/m3 từ 15 – 30 phút để loại trừ kí sinh trùng và sát trùng vết thương do sây sát trong quá trình đánh bắt, vận chuyển. Lươn mới bắt về, nuôi trong bể ương khoảng 10 – 15 ngày để theo dõi, phân loại và loại bỏ những con chết, sau đó mới đưa ra bể nuôi. Mật độ nuôi 500 – 600 con lươn/m2 (100kg/6m2 ). Theo ông Hoàng, cho lươn ăn tốt nhất lúc chiều tối, thức ăn bằng 1 – 1,5% tổng trọng lượng lươn/ngày, thức ăn thả trực tiếp lên các tấm vạt và theo dõi lươn ăn; sau khi lươn ăn 10 – 15 phút, thức ăn thừa vớt ra khỏi hồ để không ô nhiễm nước. Lươn có tập quán ăn dơ nhưng ở sạch nên mỗi ngày ông phải thay nước một lần vào buổi sáng. Lươn nuôi 6 tháng được thu hoạch (trọng lượng 3 con/kg). Ông Hoàng tiết lộ, hiện trong hồ của ông có khoảng 6 – 6,5 tấn lươn, với giá bán hiện nay 120.000 đồng/kg, trừ chi phí ông lãi hơn 200 triệu đồng”.

………………

“Chúng ta không lạ gì con lươn. Tuy nhiên, có nhiều người hiểu không hết hoặc hiểu sai về nó. Đơn cử là câu hỏi: Lươn ngủ ở đâu? Rất nhiều người cho rằng nó ngủ dưới đáy ao. Hiểu như vậy là sai. Lươn thở bằng phổi. Tuy nhiên, nó có cơ quan hô hấp phụ để tiếp nhận ôxy tan trong nước. Nhưng dù sao, lươn luôn luôn phải ngoi lên để thở.

Lươn là mặt hàng đang được tiêu thụ rộng rãi.

Phải nắm chắc đặc điểm này thì mới định hướng để xây bể nuôi chúng thành công. Lươn phải ngủ trên cạn hoặc có chỗ để ghếch mõm lên trên mặt nước mà thở. Riêng ở con lươn còn có một đặc điểm mà muôn loài không có được, đó là quá trình biến cái thành đực. Lươn đẻ ra đều là lươn cái. Nó lớn lên rồi tham gia sinh sản. Những con lươn nhỏ bằng chiếc đũa cũng đã bắt đầu đẻ. Lươn đẻ nhiều đợt trong một mùa sinh sản. Mỗi đợt nó đẻ ra vài chục trứng. Khi con lươn bắt đầu dài hơn 35 cm, ta sẽ quan sát thấy một hiện tượng hi hữu: Lươn cái sẽ tiêu biến dần buồng trứng và thay vào đó là cơ quan sinh dục đực lại mọc ra. Những con lươn từ 50 cm trở lên đều là lươn đực …

Để nuôi lươn, tốt nhất nên xây bể. Cũng có nơi bà con dùng bồn nilon. Nếu không có điều kiện, ta có thể nuôi lươn trong các hố đất hoặc các ao nhỏ. Tuy nhiên, ao phải có thành cao và dốc thẳng đứng, nếu không phải có tường bao quanh. Trước đây, trong bể người ta để các ụ đất cao để có chỗ cho lươn đào hang, làm tổ. Lươn sẽ rúc hết vào đó. Thế nhưng hiện nay, cách làm đó phức tạp hơn, kém hiệu quả và khó bắt lươn. Bây giờ nhiều người gác ngang bể một cây sào. Giữa sào người ta buộc từng bó dây nilon: Một đầu nối với sào và đầu kia thả trên mặt nước. Mỗi bó có hàng chục dây nilon. Một cây sào buộc tới hàng trăm dây nilon. Mỗi chú lươn sẽ tựa vào một sợi dây để ngóc đầu khỏi mặt nước và ngủ ngon lành. Bằng cách này, với một bể rộng 10 m2, người ta có thể nuôi được cả nghìn con lươn. Nguồn nước nuôi lươn phải là nước sạch và được thay tháo thường xuyên. Lươn ăn thức ăn động vật là chính. Do đó, nếu kiếm đủ thức ăn thì hãy nghĩ tới việc nuôi lươn. Ta có thể nuôi giun đất để làm thức ăn cho lươn. Nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long, bà con hay đi lượm ốc bươu vàng đưa về, nghiền nát để cho lươn ăn. Cũng có thể tận dụng các phụ phẩm của lò mổ để nuôi lươn. Ở Thái Lan, người ta ngâm cả tấm da trâu xuống bể lươn và chúng sẽ ăn dần tới hết …”.

…………………

“Trong những năm gần đây, lươn đồng là loài đặc sản nước có hiệu quả kinh tế vì dễ tiêu thụ, giá thành cao và kĩ thuật nuôi đơn giản, chi phí thấp nên được nhiều bà con nông dân đầu tư. Hiện tại có 2 phương thức nuôi phổ biến là nuôi trong bể và ao đất, tùy vào điều kiện cụ thể của gia đình.

Nuôi lươn đồng trong bể

Bể xi măng, bể composit hay các bể được xây dựng trên cơ sở tận dụng các vật liệu rẻ tiền sẵn có như tre, ván ghép …thường được xây dựng theo hình chữ nhật, qui mô tùy theo khả năng tài chính của nông hộ, thường chiều dài  6 – 8 m, ngang 2,5 – 4 m và cao 1,6 – 2,2 m. Phía trên phần mặt bể có gờ nhỏ (10 cm) nhằm ngăn ngừa lươn thoát ra ngoài. Đối với bể xi măng mới xây, ngâm phèn chua 100 g/m2, ngâm 2 lần, 2 ngày/lần,  sau đó chà bằng bẹ chuối, phơi nắng 30 ngày, cấp và xả nước 3 – 4 lần. Xây dựng bể nuôi ở nơi có nguồn nước sạch, cung cấp nước thường xuyên, vị trí xây nơi yên tĩnh, chủ động việc cấp và thoát nước, thuận tiện giao thông. Tốt nhất là nơi có nguồn nước chảy tự nhiên như sông, suối, đảm bảo đạt  nhiệt độ của nước 25 – 27 0C,  hàm lượng oxy hòa tan 5mg/l, độ pH  6,5 – 8, độ mặn không quá 5‰. Ngoài bể nuôi nên có một bể chứa nước và lọc nước để thay lúc cần thiết. Cần đổ một lớp đất bùn pha sét mềm khoảng 20 – 30 cm để cho lươn chui rúc khi động, đất bùn pha sét được khử trùng bằng vôi và muối, liều lượng là 10 kg đất trộn với 100 – 150gr muối và 50 – 100gr vôi bột. Hình thức nuôi lươn đồng trong bể xi măng hay khung cây, ván ghép có ưu điểm là dễ quản lí, rẻ tiền, phù hợp với hình thức nuôi hộ gia đình.

Nuôi trong ao đất lót bạt

Tùy điều kiện của từng gia đình, diện tích tối thiểu phải được 20 m2. Có dạng hình vuông hoặc hình chữ nhật. Chiều cao phải đạt từ 08 – 1 m, để giữ được mức nước 0,3 m. Thiết kế ống thoát nước ở đáy bạt, có đường kính khoảng 6 – 10 cm. Dùng cọc tre cố định phía ngoài bạt nuôi để giữ bạt chắc chắn, đảm bảo cho quá trình nuôi. Đáy phủ  một lớp đất bùn pha sét hoặc thịt pha sét (đất ruộng đang canh tác), độn thêm rơm, cỏ, thân cây chuối mục hoặc dây nilon bó thành chùm, vùi vào lớp bùn đáy để tạo điều kiện thích hợp cho lươn trú ẩn. Lớp đất bùn này không nên lẫn cát hoặc những mảnh vụn bén nhọn. Lớp đất này chiếm từ 1/3 – 1/2 diện tích ao, bề cao lớp đất từ 0,3 – 0,4 m. Thả một ít lục bình hoặc có giàn lưới ½ diện tích mặt ao để che mát, giảm bớt nhiệt độ nước ao và hạn chế lá cây rụng. Xung quanh ao làm đăng lưới hay bao vách nylon ngăn ngừa địch hại xâm nhập và phòng lươn thoát ra môi trường bên ngoài. Sau khi xây bạt xong tiến hành rửa bạt sạch bể nuôi  và cấp nước cho ao đạt 0,2 – 0,3 m. Kiểm tra các yếu tố môi trường cho phù hợp với sự phát triển của lươn rồi tiến hành thả giống.

Con giống

Chọn giống kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng (lưng có màu vàng sẫm, có chấm đen), linh hoạt, không xây xát, thương tổn, mất nhớt. Chất lượng con giống phải thật tốt. Kích cỡ giống dao động từ 20 – 30 con/kg. Mật độ thả nuôi dao động từ 50 – 80 con/m3. Trước khi thả lươn, nên tiến hành sát trùng cho lươn bằng dung dịch muối có nồng độ 2 – 3% trong thời gian 5 – 10 phút, thuốc tím 10 – 20g/m3 15 – 30 phút để loại trừ kí sinh và sát trùng vết thương do xay xát trong quá trình đánh bắt và vận chuyển. Giống nuôi chủ yếu được khai thác từ nguồn giống tự nhiên nên cần có bể để thuần dưỡng, phân cỡ và phòng trị bệnh trước khi đưa vào nuôi thương phẩm. Bể thuần dưỡng để nơi thoáng mát và yên tĩnh, tránh ánh nắng trực tiếp. Trong 1 – 2 ngày đầu, không cho lươn ăn tạo điều kiện thích nghi với môi trường nuôi nhốt. Mật độ thuần dưỡng 2 – 4 kg/m2. Thay nước 1 – 2 lần/ngày. Thời gian thuần dưỡng là 5 – 7 ngày.

Chăm sóc cho ăn và quản lí

Thức  ăn chủ yếu là cá tạp, cá biển, trùn, ốc, nhái cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nếu thức ăn là cá tạp, trước khi cho ăn nên sát trùng bằng muối ăn  0,5 kg muối/3 lít nước trong thời gian 30 phút, cá tạp tươi rửa sạch, bỏ hết nội tạng, cắt nhỏ. Để tăng cường sức khỏe cho ăn cá băm nhỏ hợp cỡ mồi theo kích cỡ lươn nuôi hoặc thức ăn tự chế biến hấp, để nguội, phối hợp trộn với 3g men tiêu hoá/1kg thức ăn + vitamin C + dầu mực để kích thích lươn bắt mồi.

Cho lươn ăn ngày 2 lần vào lúc sáng sớm (6 – 7h) và chiều tối (18 – 19h), chủ yếu vào ban đêm, lượng thức ăn mỗi ngày bằng 5 – 7% tổng trọng lượng. Sau khi cho ăn khoảng 3 đến 4 giờ, kiểm tra lại sàng ăn để xem khả năng lươn ăn mồi, qua đó điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp ở lần kế tiếp.

Dụng cụ cho ăn là sàng tre đan thưa (kích thước 0,8 m x 1 m), nhẵn hoặc bằng sàng lưới cước được đặt cách mặt nước 10 – 20 cm. Cho hoàn toàn thức ăn vào sàng ăn, mật độ sàn 70 – 100 m2 /sàng. Định kì 2 – 3 ngày thay nước một lần để tạo môi trường trong sạch cho lươn phát triển. Nên sử dụng nguồn nước qua ao lắng có xử lí vôi bột để hạn chế được dịch bệnh. Khi nuôi cần chú ý đến khả năng cung cấp nguồn nước, chất lượng nước và các yếu tố môi trường khác như hàm lượng oxy hòa tan, nhiệt độ nước, pH … để có biện pháp kĩ thuật xử lí thích hợp. Vệ sinh bể khoảng định kỳ 5 – 7 ngày phải cọ sạch bể. Mỗi ngày gom chất thải, thức ăn thừa lắng ở đáy lại và xả ra ngoài. Mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ  nuôi riêng để lươn đồng đều và chóng lớn; đồng thời thay lớp đất bùn và rơm, cỏ, thân chuối mục khác để tạo môi trường tốt cho lươn sinh trưởng. Trước khi phân cỡ để lươn nhịn từ một ngày, để lươn bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cỡ lươn, dùng vợt không dùng tay bắt.

Việc phòng bệnh cho lươn rất quan trọng, định kì 10 – 15 ngày dùng vôi bột với liều lượng 10 – 20 g/m3 hoà nước tạt để ngừa bệnh cho lươn. Thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao, bể bị ô nhiễm. Cho ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng. Thường xuyên bổ sung vitamine C để tăng sức đề kháng cho lươn và định kì trộn tỏi vào thức ăn với liều lượng 4 – 5 g/kg thức ăn để phòng bệnh đường ruột. Theo dõi các hoạt động của lươn, kịp thời phát hiện lươn bị bệnh cách li để điều trị.

Thu hoạch

Sau từ 3 – 4 tháng nuôi, lươn đạt kích cỡ thương phẩm, ta tiến hành thu hoạch. Trước khi thu cho lươn nhịn ăn một ngày. Thu tỉa thì dùng lọp, thả mồi bắt. Thu cuối vụ thì tát cạn. Lươn thu được nhốt trong bể nước sạch có sục khí để cho lươn khỏe, chịu đựng được mật độ cao thuận tiện cho việc vận chuyển sống đến thị trường tiêu thụ”.

………………..

“Trên tuyến đường qua các xã Đa Phước, Phú Hữu … ở huyện An Phú; xã Phú Lộc, Vĩnh Xương … ở thị xã Tân Châu (An Giang); xã Phú Hiệp, Phú Đức ở huyện Tam Nông (Đồng Tháp) có thể thấy rất nhiều “ô bao nhân tạo” để nuôi lươn. Phong trào nuôi lươn trên cạn mùa nước nổi ở An Giang đã lan truyền sang cả Đồng Tháp. Các mô hình nuôi thủy sản nước ngọt cần có ao, mương, nhưng nuôi lươn có thể ở trên cạn. Tùy theo đất trống ở 2 bên đường hoặc xung quanh nhà, bà con đóng cọc chung quanh rồi trải bạt nilon làm ô bao (bể nuôi). Thường bể nuôi dài 4 m, ngang 2 – 2,5 m, cao 1 m trở lên. Trong đó, người ta bỏ ít đất bùn và các loài cây tạp, như lục bình, thân cây bắp, cây sậy, rơm khô, lá chuối … làm chỗ cho lươn trú ngụ.

Thời gian gần đây, lươn đánh bắt ngoài tự nhiên ngày càng khan hiếm, vì vậy giá lươn thịt trên thị trường rất cao. Lươn là đặc sản nước ngọt được ưa chuộng, dễ tiêu thụ. Mô hình nuôi lại đơn giản, nên các hộ dễ “bắt chước” nhau. Nếu được hướng dẫn áp dụng đúng qui trình kĩ thuật nuôi và chăm sóc chắc chắn lợi nhuận sẽ hơn nhiều mô hình nuôi thủy sản khác. Do nguồn lươn giống ngoài tự nhiên vào tháng 5 – 7 rất dồi dào nên ban đầu bà con tại Câu lạc bộ Nông dân ấp Vĩnh Lợi, xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành có sáng kiến nuôi thử. Đã có 381 hộ tận dụng diện tích đất xung quanh nhà, bố trí nuôi với diện tích lên đến 3,24 ha.

Ông Nguyễn Văn Xuẩn, thành viên CLB Nông dân ấp Vĩnh Lợi cho biết: “Lúc đầu, tôi nuôi thử bằng cách tìm đến các chợ mua lươn nhỏ về thả trong bồn nilon. Do chưa có kinh nghiệm, nên lươn bị hao hụt nhiều. Đến vụ thứ hai tiếp tục đầu tư  6 bể nuôi lươn lớn, khoảng 200 m2 phía sau nhà, với lượng lươn giống thả nuôi 400 kg (bình quân 25 – 30 con/kg). Sau 7 – 9 tháng nuôi, thu hoạch được 980 kg lươn thịt, giá bán 70.000 – 140.000 đồng/kg, trừ chi phí lãi gần 29 triệu đồng …”.

Ông Xuẩn chia sẻ kinh nghiệm: “Khi làm bồn nuôi lươn, nếu điều kiện cho phép thì nên hướng về phía mặt trời, tránh gió bão. Diện tích bồn thích hợp nhất từ 10 – 20 m2. Chiều cao từ 1 – 1,3 m và cho đất ruộng vào trong bồn để lươn có chỗ cư trú. Có thể độn thêm cây cỏ mục, tạo môi trường tốt cho lươn trú ẩn. Ngoài ra, nên trồng thêm lục bình hay rau mác, rau dừa để tạo bóng râm trong bồn. Mực nước trong bồn nuôi từ 20 – 30 cm là được. Nếu sâu quá, sẽ ảnh hưởng đến sức tăng trưởng của lươn. Đặc biệt chú ý, lươn là loại không ưa ánh sáng nên bồn nuôi phải có mái che hoặc làm giàn trồng dây leo. Để lươn mau lớn cần phải giữ môi trường sạch bằng cách thay nước trong bể nuôi mỗi ngày, vì lươn là loại thích thức ăn sống nên rất làm nước bẩn sẽ ảnh hưởng đến sức sinh trưởng của lươn”.

Nói về lươn giống, ông Trần Văn Ngạn, một hộ nuôi khác ở Phú Lộc, huyện Tân Châu (An Giang) cho biết: “Lươn mới đem về không nên cho ăn ngay trong thời gian đầu. Lươn giống thường có tỉ lệ hao hụt cao, 20 – 50%, nhất là mua lươn bắt trong tự nhiên. Thời gian hao hụt có thể kéo dài 10 – 30 ngày. Nhưng có thiệt hại 50% thì vẫn còn lời. Nếu để lươn chết trong đất, sẽ làm ô nhiễm môi trường, nên hằng ngày phải thay nước, rửa đất, có khi phải thay đất mới. Theo tôi, con giống có màu vàng sẫm, phát triển tốt nhất. Màu xám tro, chậm lớn. Kích cỡ lươn giống thả nuôi tốt nhất từ 30 – 40 con/kg, phải đồng cỡ, khỏe mạnh và không bị xây xát”.

Hằng năm, khi nước lũ về là thời điểm nuôi lươn lí tưởng nhất, vì phù hợp thời gian sinh trưởng và phát triển của lươn. Mặt khác, người nuôi có thể mua được con giống dễ dàng, nhất là nguồn giống trên đất Campuchia mà người dân các xã vùng biên giới hay chọn mua. Đồng thời, mùa này nhiều người tận dụng thời gian nông nhàn; lại có thể kiếm được cua, ốc, cá vụn cho lươn ăn, mà không phải tốn nhiều tiền mua thức ăn. Thông thường mùa thu hoạch vào những tháng sau Tết nên giá bán cao. Ngoài ra, còn lại lươn loại 3 (chậm lớn), có thể nuôi tiếp và bán vào mùa nghịch, mùa này lươn thịt không có nhiều nên cũng dễ bán và giá cũng cao”.

………………..

“Bể ximăng đang nuôi lươn, không thể nuôi kết hợp với bất cứ loài cá nào. Vì mực nước của bể nuôi lươn khoảng 30 – 40 cm, nên không thể nuôi cá.

Kĩ thuật nuôi lươn

+ Lươn giống và mật độ thả:

– Lươn có 3 loại : Loại màu vàng sẫm, phát triển tốt nhất; loại màu vàng xanh, phát triển bình thường; loại màu xám tro, chậm lớn.

– Bắt từ các nguồn sau: Bắt trực tiếp lươn sẵn có trong tự nhiên (từ tháng 6 – 10 hằng năm); thu gom mua ở chợ.

– Chọn lươn nuôi cho đẻ: Kích thước lươn giống thả nuôi tốt nhất: 40 – 60 con/kg; lươn giống thả nuôi phải đồng cỡ, không bị xây xát, khoẻ mạnh; mật độ thả : 40 – 50 con/m2.

– Phương pháp thuần dưỡng lươn: Do không rõ nguồn gốc, phương pháp đánh bắt lươn giống nên việc thuần dưỡng lươn sẽ quyết định sự thành công hay thất bại trong nuôi thương phẩm. Quá trình thuần dưỡng đựơc tiến hành theo các bước sau: Nên có nhiều bể để thuần dưỡng để có thể chứa nhiều cỡ lươn khác nhau; bể thuần dưỡng để nơi thoáng mát và yên tỉnh, tránh ánh nắng trực tiếp (đặt ở chổ có bóng râm hoặc có mái che); tránh gây chấn động trong thời gian thuần dưỡng và nuôi thương phẩm; lươn thu gom về phải đi đưa qua nước muối 4 – 5 o/oo  để xử lí. Sau đó vớt ra và phân loại lần hai trước khi đưa vào nuôi thương phẩm; trong 2 – 3 ngày không cho lươn ăn tạo điều kiện thích nghi với môi trường nuôi nhốt. Mật độ thuần dưỡng 2 – 4 kg/m2; ngâm tắm cho lươn bằng một số hóa chất, thuốc kháng sinh được Bộ Thủy sản cho phép sử dụng; mực nước trong bể không quá 20 – 30 cm; nguồn nước đất sét không nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất công nghiệp và nước thải sinh hoạt; điều kiện môi trường thích hợp: Nhiệt độ từ 23 oC – 28 oC;  pH từ 6,5 – 8,0; độ mặn không quá 6 o/oo; tùy thuộc vào quá trình thuần dưỡng mà có biện pháp xử lí cụ thể, thay nước 1 – 2 lần/ngày (nước bị nhiễm bẩn nhiều hay ít do chất thải của lươn tiết ra); ngoài bể nuôi nên có một bể chứa nước để thay lúc cần thiết; sau một tuần cho ăn một ít trùn hoặc một số loại thức ăn mà lươn ưa thích; theo dõi hoạt động và mức ăn mồi của lươn để phòng trị bệnh kịp thời; sau 10 – 15 ngày, cho lươn vào bể nuôi thương phẩm.

+ Xây dựng ao nuôi: Nên chọn nơi có địa thế hơi cao, hướng về phía mặt trời, tránh gió bão, nguồn nước phong phú, chất nước tốt, có độ chênh nhất định để tháo nước. Hình dáng kích thước bể tuỳ theo qui mô nuôi mà quyết định, bể nhỏ có thể vài m2, nhìn chung từ 10 – 30 m2 là thích hợp, bể nổi hoặc bể xi măng đều được, chỉ cần nắm vững nguyên tắc để đề phòng không cho lươn bò đi, cấp thoát nước thuận tiện. Có thể thiết kế theo 2 kiểu bể nuôi lươn như sau :

* Nuôi lươn trong bể lót bạt: Chọn nơi đất cứng, đào sâu xuống 20 – 40cm, lấy đất đào ao đắp bờ cao 40 – 60 cm, rộng 1 m. Bể nuôi có chiều cao khoảng 1 m; bờ phải nện chặt từng tầng lớp một, đáy ao sau khi đào xong cũng phải nện và lót chặt. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, các bể nuôi lươn có diện tích từ 10 – 50 m2. Xung quanh bờ và đáy ao có thể dùng nilon để lót hoặc bờ ao có thể xây cao có gờ hoặc lưới giăng để tránh lươn vượt bò đi mất khi có điều kiện thuận lợi. Nơi nuôi lươn phải có điều kiện thay nước thuận lợi và cũng cần tạo nơi cho lươn trú ẩn gần giống như quang cảnh tự nhiên. Đáy bể có thể phủ  một lớp đất thịt pha sét (đất ruộng đang canh tác). Lớp đất này chiếm từ 1/3 –  1/2 diện tích bể, bề cao lớp đất từ 0,5 – 0,8 m. Mực nước trong bể nuôi  từ 20 – 30 cm. Mức nước sâu quá ảnh hưởng đến sức tăng trưởng của lươn. Trong ao có thể thả một ít lục bình, rau mác, rau dừa hoặc cỏ tạo điều kiện sinh thái giống như tự nhiên làm nơi trú ẩn cho lươn; xung quanh ao có bóng râm, hoặc có giàn lưới để che mát giảm bớt nhiệt độ nước ao và hạn chế lá cây rụng vào bể nuôi.

* Nuôi lươn trong bể xi măng: Có thể tận dụng bể chứa nước, chuồng heo sau khi đã sửa chữa lại để nuôi lươn. Nếu xây bể nuôi mới thì nên xây nửa nổi, nửa chìm với chiều cao khoảng 1 m với diện tích từ 6 – 20 m2. Bể có dạng hình chữ nhật chiều rộng 2 – 4 m để dễ dàng chăm sóc. Tốt nhất nên chia bể thành 3 ngăn: Ngăn cho lươn sinh sống (A) lớn nhất, ngăn thứ hai (B) nhỏ hơn cho lươn đẻ và cho ăn và ngăn thứ ba (C) dùng để thu hoạch. Ngăn A có phủ một lớp bùn non và thân chuối như đối với ao nuôi và cách đáy bể 30 cm có lổ thoát nước. Xếp gạch ở đáy trong ngăn này thành nhiều ngách. Ngăn B xây vách bằng gạch hình mắt cáo cho lươn chui ra vào và quanh bên có đắp đất sét và đất thịt thành bờ rộng 0,5 m để lươn làm tổ đẻ. Ngăn C kín và thông với ngăn B bằng một ống có đường kính 20 cm và có lổ thoát nước ra ngoài có lưới chắn dạng chảy tràn phòng khi mưa to nước đầy, lươn sẽ thoát ra ngoài

+ Bố trí bể nuôi:

– Bố trí mộtcù lao bằng đất sét pha thịt (đất ruộng đang canh tác) cao khoảng 0,6 – 0,8 m tạo môi trường cho lươn đào hang trú ẩn; diện tích cù lao đất chiếm từ 1/2 – 2/3 diện tích đáy bể. Trên mặt cù lao trồng cây cỏ thủy sinh như cỏ, rau mác, lục bình, khoai môn nước … tạo cảnh  quan thiên nhiên thích hợp cho lươn.

– Đổ một lớp bùn đáy cao khoảng 0,3 – 0,4 m, nên độn thêm rơm, cây chuối mục để tạo môi trường trú ẩn cho lươn. Có thể dùng dây nilon bó thành chùm, vùi vào lớp bùn tạo điều kiện thích hợp cho lươn trú ẩn.  Lớp bùn đất này không chứa các mảnh vụn bén nhọn.

– Lươn không ưa ánh sáng, nên khi bố trí bể nuôi phải có mái che hoặc làm giàn trồng cây leo tránh được sự thay đổi môi trường một cách đột ngột.

– Giữ mức nước cao khoảng 0,2 – 0,3 m, phía trên có ống thoát nước có bịt lưới để nước có thể thoát ra ngoài và tránh lươn bò đi khi nước dâng lên tràn bể. Khi mức nước sâu quá, lươn vận động nhiều, tiêu tốn nhiều năng lượng của cơ thể làm lươn chậm lớn.

– Bố trí vài bóng đèn nhỏ cách mặt nước 30 – 40 cm thu hút côn trùng rớt trên mặt nước làm thức ăn bổ dưỡng cho lươn và bảo vệ bể nuôi.

– Vào những lúc trời mưa, lươn thường tìm đường thoát đi, vì vậy nên bao lưới quanh bể nuôi hạn chế lươn bò trốn. Ngoài ra còn phải phòng dịch hại như mèo, chuột, chim.

+ Thức ăn:  Sau khi trải qua thời gian thuần dưỡng, lươn đã quen với điều kiện nuôi nhốt, cần chú ý những điều sau khi cho lươn ăn:

– Nên cho lươn ăn vào buổi tối và chọn loại thức ăn lươn ưa thích như giun đất (1 -2% trọng lượng lươn). Sau 10 – 15 ngày có thể cho ăn theo khẩu phần 5 –  8% trọng lượng lươn nuôi. Thời điểm cho ăn thích hợp nhất từ 15 – 17 giờ.

– Theo dõi mức ăn của lươn để hạn chế thức ăn thừa, 1 – 2 giờ sau khi cho lươn ăn nên kiểm tra và vớt bỏ phần thức ăn thừa.

– Thức ăn cho lươn bao gồm nhiều loại: Xác động vật … chết, giun, ốc, cá tép vụn, phế phẩm lò mổ … nên cho lươn ăn thức ăn còn tươi hạn chế thức ăn bị hôi thối. Hiện nay người dân ĐBSCL tận dụng ốc bươu vàng vào mùa nước nổi để làm thức ăn cho lươn đem lại hiệu quả kinh tế cao.

– Khẩu phần ăn 5 – 8% trọng lượng lươn thả.

+ Chăm sóc và quản lí:

– Thời gian nuôi thích hợp nhất từ tháng 6 – 12, lươn ăn mạnh và phát triển tốt nhất vào tháng 6 – 10. Trong quá trình chăm sóc, khi cho lươn ăn phải nắm vững nguyên tắc “4 định” (định chất, định lượng, định thời gian, định vị trí) để điều chỉnh lượng thức ăn một cách hợp lí. Ðịnh chất là thức ăn phải luôn tươi sống, tuyệt đối không cho ăn thức ăn cũ, ôi thiu. Ðịnh lượng là vừa đủ no, không để thức ăn thừa (lươn rất tham ăn dễ bị bội thực). Trong phạm vi nhiệt độ thích hợp, nhiệt độ cao cho ăn số lượng nhiều hơn,  lúc đầu cho ăn khoảng 1 – 2% và khẩu phần tăng dần lên 5 – 8% trọng lượng lươn. Ðịnh thời gian tức là từ 15 – 17h chiều, sau khi lươn đã quen có thể cho ăn sớm dần và tập cho lươn ăn vào ban ngày. Ðịnh vị là chỗ cho ăn phải cố định, sàn cho ăn bằng gỗ hoặc tre,  sàn làm bằng lưới rây hoặc rổ thưa.

– Quản lí  nước nuôi: Giữ nguồn nước sạch, không  bị ô nhiễm: Ao nuôi lươn yêu cầu nước sạch, hàm lượng O2 trên 2mg/l. Do bể nuôi lươn rất cạn chỉ có 20 – 30 cm mà thức ăn lại giàu đạm nên nước rất dễ bị nhiễm bẩn ảnh hưởng đến tính bắt mồi và sinh trưởng của lươn. Khi nước quá bẩn thì nửa thân trước của lươn thẳng đứng trong nước, đầu nhô lên mặt nước để thở. Khi gặp hiện tượng đó phải nhanh chóng thay nước mới vào. Ðể phòng tránh  nước nhiễm bẩn thì từ 2 – 3  ngày thay nước một lần. Lượng nước thay tối đa 70% lượng nước nuôi. Mùa hè nhiệt độ cao nên thay nước  hằng ngày và thường xuyên vớt bỏ thức ăn thừa, rác bẩn trong bể nuôi … Giữ  nhiệt độ ổn định: Do mức nước sử dụng để nuôi lươn chỉ có 20 – 30 cm, nên bể nuôi phải che bằng giàn lưới hoặc thả một ít rong bèo hoặc trồng cây cỏ thủy sinh. Giữ lươn không bò trốn: Vào những lúc trời mưa lươn rất hay bò trốn đi nơi khác; nhất là lúc trời mưa liên tục, nước dâng lên, lươn theo đáy, hoặc chỗ cống bị thủng lươn cũng theo đó mà bò đi ra ngoài … Vì vậy, bể nuôi phải được thiết kế đúng theo yêu cầu kĩ thuật, phải thường xuyên kiểm tra phát hiện những khe hở để kịp thời sửa chữa.

+ Thu hoạch: Tùy theo kích thước thả mà quyết định thời gian thu hoạch hợp lí. Thông thường, cỡ lươn giống thả thích hợp từ 50 – 60 con/kg; thời gian nuôi từ 5 – 6 tháng  lươn có thể đạt được 150 – 220g/con.  Nếu  quy cách thả 15 – 20 con/ kg, thời gian nuôi chỉ có 2,5 – 3 tháng. Công việc thu hoạch cần tiến hành  theo các bước như sau:

– Chuẩn bị đầy đủ nhân lực và dụng cụ bắt lươn:  Vợt, thùng chứa, sọt …

– Phương tiện vận chuyển lươn: Thùng tôn hoặc bạt lót có nước sạch đặt trên ô tô hoặc ghe …

–  Rút cạn nước, dọn sạch cỏ  lục bình  trong bể nuôi;  cần có đội ngũ lao động khỏe chuyển bớt đất trong bể ra ngoài, sau đó tiếp tục chuyển đất sang một góc bể; do bị động nên lươn gom về góc bể trốn do đó ta sẽ dễ thu  gom, chuyển đi.

Cách tiến hành thu hoạch và vận chuyển:

– Chọn thời điểm thu lươn vào lúc sáng sớm hay chiều mát.

– Nên bắt từng mẻ và thu gọn, vận chuyển nhanh.

– Rửa sạch bùn đất bám trên da và mang lươn vào bể chứa tạm trước khi vận chuyển đến nơi  tiêu thụ.

– Không chuyển lươn với mật độ quá cao làm lớp lươn bên dưới bị đè dẹp dễ bị ngộp và chết.

– Tốt nhất sau khi thu hoạch ta nên vận chuyển ngay.

– Năng suất: Lươn nuôi trong bể năng suất đạt từ 6 – 10kg/m2/vụ. Có thể tiến hành thả 2 – 3 vụ nuôi trong năm”.

…………………..

“Lươn là động vật máu lạnh, nhiệt độ cơ thể biến đổi theo nhiệt độ của môi trường nước xung quanh. Nhiệt độ môi trường sống từ 15 – 30 độ C, thích hợp nhất 24 – 28 độ C. Dưới 10 độ C chúng rúc tận đáy bùn, sống dựa vào nguồn thức ăn tích trữ trong cơ thể, trên 32 độ C sức ăn giảm đi. Cấu tạo của lươn dễ cho việc trốn lủi, nhất là lúc đói. Ngày có mưa sấm, lươn bỏ đi hàng loạt, ngoi theo lạch nước chảy, nếu xung quanh có đất cứng có thể dùng đuôi cựa để lách đi. Nếu trong ao có hang hốc, có dòng nước chảy thì toàn bộ lươn nuôi bỏ đi. Đây là nguyên nhân thất bại trọng yếu nhất của việc nuôi lươn. Vì vậy khi nuôi phải đặc biệt chú trọng đề phòng lươn bỏ đi. Ngoài ra việc chuẩn bị thức ăn cũng rất quan trọng, cần căn cứ vào lượng thức ăn để quyết định lượng lươn nuôi.

+ Lươn giống: Đây là vấn đề đầu tiên được giải quyết khi nuôi lươn. Lươn giống thu được từ các nguồn sau:

– Bắt trực tiếp từ lươn sẵn có trong tự nhiên: Hàng năm từ tháng 4 – 10 có thể dùng lồng bẫy để bắt lươn ở ruộng lúa, ở các mương rãnh … lươn bắt được theo cách này thương không bị thương, khoẻ mạnh, tỉ lệ sống cao.

– Mua lươn ở chợ: Cần chọn con khoẻ mạnh, không bị thương, lươn giống câu bằng lưỡi câu sẽ bị thương dễ sinh bệnh nấm thuỷ mi, có con bị đau không ăn được nên gầy yếu, không thể dùng làm lươn giống được.

Có thể phân lươn giống làm 3 loại:

– Loại 1: Thân màu vàng có chấm lớn, loại này lớn rất nhanh.

– Loại 2: Thân màu vàng xanh, loại này sinh trưởng trung bình.

– Loại 3: Mầu xám tro, chậm lớn.

Kích thước lươn giống tốt nhất là cỡ 30 – 50 con/1kg, nếu lươn quá nhỏ tỉ lệ sống sẽ thấp, cỡ quá lớn thì hiệu quả kinh tế thấp.

– Chọn lươn nuôi cho đẻ: Vào cuối năm, trong số lươn thu hoạch được chọn những con nặng từ 100 – 200g, thân màu vàng trơn bóng, nuôi qua mùa đông trong ao giàu dinh dưỡng tới mùa xuân cho sinh đẻ nếu nước trong ao trên 15 độ C. Trong thời kì sinh sản phải đặc biệt chú ý đến trứng lươn đẻ và lươn con để vớt ra kịp thời nuôi ở các ao đề phòng chúng ăn lẫn nhau. Bón phân ở ao để gây thức ăn động vật phù du, khi thiếu thức ăn phải cho thêm lòng đỏ trứng gà luộc chín cho lươn ăn. Nếu lươn dài cỡ 3 – 5cm, có thể cho ăn giun, cá tạp băm nhỏ. Nếu trứng lươn thu ở ngoài thiên nhiên (như ở các bờ ruộng lúa, sau lúc mưa rào) thì chú ý cách nhận biết trứng lươn như sau: Trước khi lươn đẻ trứng, lươn cái thường phun bọt rồi đẻ trứng vào đó, nếu thấy những đám bọt này có thể vớt trứng về ấp trong khay.

+ Phương pháp nuôi lươn:

– Điều kiện và yêu cầu cơ bản: Khi nuôi lươn cần chọn nguồn nước đầy đủ, không ô nhiễm, nơi dễ thay tháo nước, nơi nước chảy quanh năm càng tốt. Diện tích nuôi to nhỏ tuỳ ý, từ 3 – 5 m2 tới hàng chục, hàng trăm m2. Đất hoang trước hay sau nhà, khe nước đều có thể làm nơi nuôi lươn.

– Cách làm ao nuôi lươn: Gia đình nuôi lươn nên xây ao ở gần nhà, thoáng gió, hướng về phía mặt trời, nguồn nước thuận tiện, dễ trông coi. Diện tích ao nuôi to nhỏ tuỳ ý, hình dạng ao có thể hài hoà với cảnh quan. Ao nuôi tốt nhất là xây gạch. Thành ao nên nghiêng về phía lòng ao để đề phòng lươn móc đuôi lên thành trốn thoát. Ở mặt bên cách đáy ao 0,5 m nên có cửa tháo nước ra, có tấm chắn che lại. Ao nuôi sâu từ 1 – 1,5 m, đáy ao phủ một lớp đất màu có nhiều bùn dầy khoảng 20 cm. Trong ao thả những hòn đá, mảnh ngói, cành cây tương đối lớn tạo thành những hang hốc. Trong môi trường như vậy, lươn rất ít khi đào lỗ trên nền ao mà thường ẩn nấp trong những hốc do người tạo nên. Vào mùa đông khi lật mở những vật che phủ có thể thấy rất nhiều lươn chui rúc cùng một chỗ rất dễ bắt. Sau khi đổ lớp bùn đáy, có thể tháo nước vào, mức nước sâu khoảng 10 cm. Trong nước có thể tạo các thực vật thuỷ sinh để cải thiện môi trường. Mùa hè có thể che bớt nắng, giữ nhiệt độ đáy nước. Ở các ao rộng có thể thả các đám cỏ, lươn rất thích rúc vào bên trong, đồng thời các búi cỏ nát có thể tạo ra một lượng lớn động vật phù du cung cấp thức ăn cho lươn. Trước khi thả giống 7 – 10 ngày, dùng 0,2 kg vôi/1 m2 để khử trùng, diệt mầm bệnh.

– Chuẩn bị con giống: Lươn con phải không có bệnh, không bị thương, lưng màu vàng sẫm, có những chấm đen, mỗi con nặng từ 20 đến 30g. Loại lươn này sinh trưởng nhanh. Kích thước lươn nuôi trong ao phải đồng đều để tránh ăn thịt lẫn nhau. Trung bình 1 m2 thả 50 – 60 con có độ dài 10 – 15 cm. Trước khi thả, cần tắm lươn giống trong dung dịch CuSO4 nồng độ 1 phần triệu, nhiệt độ của dung dịch là 24 – 26 độ C, ngâm trong 25 – 30 phút, hay dùng nước muối nồng độ 4% tắm trong vòng 4 – 5 phút để phòng nấm thuỷ mi rất có hiệu quả, đồng thời có thể diệt trừ kí sinh trùng lên lươn giống. Khi tắm nếu nhiệt độ nước thấp nên để thời gian dài hơn một chút, nếu nhiệt độ nước cao thì rút ngắn thời gian đi. Do thể chất các loại lươn giống khác nhau, sức chịu đựng các loại thuốc cũng khác nhau, vì vậy trong quá trình ngâm rửa phải quan sát phản ứng của lươn giống, phát hiện mức độ phản ứng mạnh trong thời gian tương đối dài hoặc lươn nổi lên là dấu hiệu không bình thường thì phải vớt lươn ra ngay. Lươn giống sau khi khử trùng phải đem thả ngay, nếu không thả ngay thì phải dùng nước sạch rửa 1 – 2 lần.

– Thức ăn nuôi lươn: Nên áp dụng phương pháp thích ứng với từng địa phương. Nếu ở khe nước, lạch nước, có thể bắt giun, côn trùng sẵn có, ở vùng núi đồi có thể bắt giun. Nơi nuôi tằm có thể cho lươn ăn nhộng tằm. Vùng có hồ có thể cho ăn cá con. Ở gần nhà máy chế biến thực phẩm có thể mua nội tạng động vật vứt bỏ làm thức ăn. Khi thiếu thức ăn có thể cho lươn ăn những thức ăn như cơm, mì sợi …, nhưng như vậy tốc độ sinh trưởng của lươn sẽ chậm. Cần chú ý không cho lươn ăn những thức ăn mục nát đã biến chất vì lươn dễ mắc bệnh hoặc chết.

– Quản lí nuôi dưỡng: Mùa sinh trưởng của lươn thông thường từ tháng 4 – 10. Thời gian kiếm mồi và lớn nhanh từ tháng 5 – 9. Trong quá trình nuôi lươn cần chú ý những điểm sau: Thả mồi phải định kì, định lượng: Thức ăn cho ăn hàng ngày phải bằng 5 – 7% thể trọng lươn. Thức ăn quá nhiều lươn tham ăn sẽ bị chết, nếu quá ít sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng. Căn cứ vào đặc điểm ăn đêm của lươn, thời gian cho ăn thường là từ 6 – 7h tối, mỗi ngày vớt thức ăn thừa một lần để tránh thức ăn rữa nát làm ô nhiễm nước. Ở giai đoạn lươn giống cần làm tốt việc thuần hoá thức ăn. Mấy ngày đầu mới thả có thể không cho lươn ăn, sau đó cho ăn giun và các thức ăn khác. Hình thành tập tính ăn thức ăn hỗn hợp cho lươn giống. Nếu cho ăn một loại mồi trong một thời gian dài thì về sau tính ăn của lươn rất khó cải biến, không có lợi cho việc nuôi. Giữ nước trong sạch: Vào mùa nóng nên tăng số lần thay nước, kịp thời vớt hết thức ăn thừa. Ngoài ra, trồng thực vật thuỷ sinh trong ao có tác dụng hạ được nhiệt độ của nước, làm sạch nước. Sau khi mưa phải tháo nước kịp thời đề phòng lươn bỏ trốn. Mùa hè có thể dùng lều che nắng có lợi cho sinh trưởng của lươn. Phân ao: Trước khi lươn sinh sản có thể thả vào ao một ít cây cải dầu, dây khoai, rơm khô để lươn đẻ trứng. Lươn con mới nở vớt ra ngay thả vào ao ương tránh lươn mẹ ăn lươn con. Ao nuôi lươn con chủ yếu dựa vào màu nước sinh ra động vật phù du làm mồi cho lươn.

+ Thu hoạch: Thời gian đánh bắt lươn vào khoảng tháng 10 – 11. Khi nhiệt độ hạ xuống 10 – 15 độ C lươn bắt đầu dừng ăn và ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ thấp, lươn ít hoạt động nên khi bắt ít bị thương và dễ cho việc vận chuyển. Phương pháp bắt có thể là câu, đánh lưới hoặc tát cạn ao. Ngủ đông của lươn: Cuối mùa thu, đầu mùa đông, lươn ngừng ăn rúc vào bùn ngủ đông. Đối với việc để giống lươn con qua đông, cần phải tháo cạn nước ao nhưng phải giữ cho lớp bùn luôn ẩm ướt. Nếu nhiệt độ xuống quá thấp, cần phủ một lớp cỏ lên mặt ao để giữ ấm chống lạnh. Có một số nơi có thể để nước qua mùa đông, nhưng phải để mực nước sâu một chút để tránh kết băng làm lươn chết cóng”.

…………………..

“Anh Nguyễn Văn Của, khu vực Thới Bình 2, phường Thuận An, quận Thốt Nốt bắt đầu nuôi lươn từ năm 1999. Trong thời gian đầu do chưa có kinh nghiệm nên lươn nuôi lớn không đồng đều, tỉ lệ hao hụt khá cao (do lươn lớn ăn thịt lươn nhỏ). Qua thời gian nuôi anh đã tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm đến 2010 anh đã mở rộng qui mô nuôi lươn lên đến 420 kg giống/vụ nuôi (cỡ giống khoảng 25 – 30 con/kg ) trên diện tích bể 136 m2. Anh cho biết tổng chi phí đầu tư cho một vụ nuôi là: 78.000.000đ (bao gồm  bạt trải nền: 3.000.000đ, đất (tạo môi trường, vai trò như một giá thể): 10.000.000đ, điện bơm nước: 600.000đ, giống: 16.000.000đ, thức ăn: 34.000.000đ, thuốc thú y thuỷ sản: 8.000.000đ. Sau thời gian nuôi khoảng 6 tháng anh Của thu hoạch bán tổng cộng khoảng 120.000.000đ, khi trừ chi phí còn lãi trên 50 triệu đồng.

Qua thực tế nuôi nhiều năm qua anh Của đã rút ra được những kinh nghiệm bổ ích như sau: Có thể nuôi 2 vụ lươn/ năm. Trong tháng đầu thả nuôi tỉ lệ hao hụt của lươn rất cao 30 – 50% nên theo anh Của thì việc lựa chọn nguồn giống tốt là rất quan trọng (có thể từ nguồn đặt trúm hay súc từ các ụ rơm trên đồng vào mùa nước nổi hoặc tốt nhất là nguồn từ con giống nhân tạo). Bể nuôi lươn thích hợp nên có kích thước sau: Chiều ngang bể khoảng 4,5 – 5,5 m, chiều dài khoảng dài 7 – 8 m và chiều khoảng cao 0,8 m; bể xây bằng gạch xung quanh sẽ giảm được chi phí hằng năm phải xây dựng lại. Bên trong vẫn lót bạt (vừa chứa nước vừa tránh làm xây xát lươn), cho đất mặt ruộng vào bể để có chỗ lươn cư trú như hình trên. Hằng năm phải bổ sung đất mới vào để bể luôn có đất mới tạo môi trường cho lươn con sinh sống tốt hơn. Trước khi nuôi lươn cần phải được thuần hóa thức ăn, đặc biệt không cho lươn ăn thức ăn hôi thối, nên vớt bỏ thức ăn dư thừa sau 1 – 2 giờ cho ăn. Cần chú ý, lươn nuôi với mật độ cao thì môi trường dễ thay đổi đột ngột nên khi chế độ chăm sóc chưa hợp lí sẽ khiến cho lươn dễ mắc bệnh và gây thiệt hại cho người nuôi. Nuôi lươn đúng kĩ thuật, đặc biệt là kinh nghiệm thực tiễn sẽ quyết định đến thành công tới 80 – 90%”.

Kết luận: Mặc dù trên lí thuyết nuôi lươn là dễ nhưng thực tế không hẳn như vậy. Bất cứ mô hình chăn nuôi nào muốn thành công cũng đều phải tuân thủ đúng qui trình kĩ thuật, làm tốt khâu đầu vào và đầu ra. Chỉ cần thiếu hiểu biết, kinh nghiệm ở một công việc nào đó liên quan đến mô hình chăn nuôi đang triển khai đều có thể dẫn đến những quyết định sai lầm phải trả giá đắt. Giàu có là một quá trình, trong đó mỗi quyết định, hành động là một mắt xích có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả.

3. Điều kiện cần và đủ:

Sau đây là những điều kiện tối thiểu cần và đủ để bạn có thể thực hiện thành công ý tưởng này:

+ Bạn phải có một số vốn đủ để thực hiện mô hình “nuôi giun và lươn”. Số vốn này bạn sẽ dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, lắp đặt thiết bị, thuê nhân công …; lập trang web, quảng cáo, giao dịch …

+ Bạn phải có đủ điều kiện về đất, nước, thổ nhưỡng, khí hậu, vị trí … để phát triển.

+ Bạn phải nắm được kĩ thuật phát triển mô hình này.

+ Bạn phải kiên nhẫn đủ để theo đuổi ý tưởng.

+ Bạn phải am hiểu về internet, thiết kế web, logo, slogan, banner và có khiếu chọn hình ảnh, viết bài đăng trên web.

+ Bạn phải là người có khiếu giao tiếp …

+ Bạn phải am hiểu cơ bản về các thủ tục pháp lí trong lĩnh vực kinh doanh.

+ Bạn phải là người cầu tiến, chu toàn, quản lí chặt chẽ tiền bạc …

4. Khó khăn và thuận lợi:

Kinh doanh bất cứ lĩnh vực nào cũng có khó khăn và thuận lợi, nếu như bạn cảm thấy mình không thể vượt qua những khó khăn liệt kê dưới đây thì tốt nhất không nên chọn thực hiện ý tưởng này. Sau đây là một số khó khăn và thuận lợi điển hình khi bạn quyết định theo đuổi ý tưởng này:

Khó khăn:

+ Về kĩ thuật phát triển mô hình: Khi nghĩ ra ý tưởng tác giả đã nghĩ ra kĩ thuật phát triển mô hình để thành công, do đó bạn nên liên hệ với tác giả để biết cách thực hiện.

+ Về việc lập web: Nhiều người cứ cho rằng lập web không có gì khó, thật ra để có một trang web thú vị lôi cuốn khách hàng là điều không hề dễ dàng. Ngoài cách trình bày, chọn lọc hình ảnh, nội dung … thì khó khăn nhất chính là viết bài. Người quản lí web phải viết bài sao cho thật hay, ý nghĩa, phù hợp tâm lí người đọc, đúng đắn, thiết thực … Bạn phải biết rằng đối tượng khách hàng của bạn là ai để khi viết bài bạn phải nêu bật lí do tại sao họ nên chọn sản phẩm, dịch vụ của bạn. Vấn đề này tưởng đơn giản nhưng lại rất khó đối với những ai không có khiếu văn chương.

+ Về việc quản lí tiền bạc: Để làm nên sản nghiệp lớn bạn phải học cách quản lí chặt chẽ tiền bạc, đây là một yêu cầu không thể thiếu ở người làm giàu.

+ Về việc tuyển dụng, quản lí nhân sự: Đừng coi thường tính chuyên nghiệp ngay từ đầu. Nhân viên phải có những đức tính giống người chủ, phải được huấn luyện đầy đủ và chấp hành nội qui làm việc … Đối với những bạn đã từng đứng ở cương vị quản lí có những hiểu biết nhất định về nghiệp vụ nhân sự thì không nói làm gì, nhưng đối với những bạn mới ra đời sẽ rất lúng túng. Cái gì cũng phải học, rèn luyện từ từ, nếu có quyết tâm thì bạn sẽ làm tốt thôi.

Thuận lợi:

+ Đây là một ý tưởng kinh doanh khả thi, thiết thực, rủi ro thấp.

+ Nhu cầu nhiều.

+ Lợi nhuận cao.

+ Qui mô phát triển rộng lớn.

+ Thị trường tiêu thụ tiềm năng.

5. Cách thức chuẩn bị và thực hiện:

Liên hệ Chat Master Club qua địa chỉ E-mail bên dưới để được hướng dẫn cụ thể:

chatmasterclub@yahoo.com

6. Duy trì và phát triển:

Liên hệ Chat Master Club qua địa chỉ E-mail bên dưới để được hướng dẫn cụ thể:

chatmasterclub@yahoo.com

 

Chat Master Club

09/01/2013

6 Comments

  1. Chào các thành viên trong câu lạc bộ!
    Bài viết từ diễn đàn thật sự rất có ý nghĩa cho tất cả những ai đọc được nó, có rất nhiều kiến thức bổ ích cho việc nuôi trồng thủy sản và làm giàu.
    Bản thân rất đam mê nghề nuôi trồng thủy sản nhưng thật sự chưa có điều kiện để thực hiện ước mơ này. Nhưng thật sự em rất lo về thị trường tiêu thụ cho sản phẩm mình làm ra. Điều này quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Rất mong được sự giúp đỡ của các chuyên gia về thị trường này, có thể giới thiệu giúp em một vài trang web hoặc địa chỉ tiêu thụ sản phẩm. Mọi sự giúp đỡ xin gửi về hộp thư: nguyenhoangquan2501@yahoo.com.vn hoặc số DTDT: 01627078779( Quân)
    Chân thành cảm ơn và hậu tạ!

  2. bài viết của bạn rất hay. ít nông dân nào ở Vn chú trọng các vấn đề ngoài kỹ thuật chăn nuôi ở VN. đó là lý do VN luôn khó khăn trong phát triển nông nghiệp.

Gửi phản hồi cho duonghachau Hủy trả lời